Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, December 4, 2024

Trường Đình Oán - Trương Viêm

亭怨 -  Trường Đình Oán – Trương Viêm

舊居有感  Cựu cư hữu cảm

 

望花外、小橋流水。Vọng hoa ngoại, tiểu kiều lưu thủy.

門巷愔愔,                 Môn hạng âm âm,

玉簫聲                 Ngọc tiêu thanh tuyệt.

鶴去臺空                 Hạc khứ đài không,

珮環何處弄明     Bội hoàn hà xứ lộng minh nguyệt?

十年前事,                 Thập niên tiền sự,

愁千折、心情頓Sầu thiên chiết, tâm tình đốn biệt.

露粉風香,                 Lộ phấn phong hương,

誰為主、都成消Thùy vi chủ, đô thành tiêu hiết.

 

                          Thê yết.

曉窗分袂處,             Hiểu phong phân mệ xứ,

同把帶鴛親         Đồng bả đái uyên thân kết.

江空歲晚,                 Giang không tuế vãn,

便忘瞭、尊前曾Tiện vong liệu, tôn tiền tằng thuyết.

恨西風、不庇寒蟬,Hận tây phong, bất tí hàn thiền,

便掃盡、一林殘Tiện tảo tận, nhất lâm tàn diệp.

謝楊柳多情,             Tạ dương liễu đa tình,

還有綠陰時         Hoàn hữu lục âm thời tiết.

 

Chú Thích

1- Trường đình oán長亭怨: tên từ bài, tên khác là “Trường đình oán mạn長亭怨慢”. Toàn bài có 97 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 5 trắc vận. Riêng bài này của Trương Viêm, đoạn trước chỉ có 4 trắc vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

 

T B T, T B B T cú

B T B B cú

T B B T vận

T T B B cú

T B B T T B T vận

T B B T cú

B B T, B B T T vận

T T B B cú

B B T, B B B T vận

 

B T vận

T B B T T cú

B T T B B T vận

B B T T cú

T B T, B B B T vận

T B B, T T B B cú

T T T, T B B T vận

T B T B B cú

B T T B B T vận

 

2- Cựu cư 舊居: chỉ nơi ở cũ của tác giả ở Lâm An 臨安, thủ đô nước Nam Tống 南宋, nay là thị trấn Hàng Châu 杭州, tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.

3- Âm âm 愔愔: yên tĩnh tịch mịch.

4- Hạc khứ đài không 鶴去臺空: hạc đã bay đi để lâu đài trống không, chỉ cảnh hoang vu nơi ở cũ.  

5- Bội hoàn 珮環 = bội hoàn 佩環: vòng chuỗi ngọc trang sức của phụ nữ, cũng dùng để đại chỉ phụ nữ. Bội hoàn hà xứ lộng minh nguyệt 佩環何處弄明月: người mỹ nữ nay đã về đâu dưới đêm trăng. Tác giả mượn ý câu thơ của Đỗ Phủ 杜甫 trong bài “Vịnh hoài cổ tích kỳ 3 咏懷古迹其三”: 

 

畫圖省識春風面,Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện,

環珮空歸月夜魂。Hoàn bội không quy nguyệt dạ hồn.

(Quân vương) đã hốt lược xem bức họa diện (của Chiêu Quân),

Hồn Chiêu Quân đã quay về giữa đêm trăng.

 

6- Thập niên tiền sự 十年前事: chuyện 10 năm trước khi quân Nguyên tiến chiếm Hàng Châu. Theo trang mạng “Bách Độ Bách Khoa  百度百科https://wapbaike.baidu.com › tashuo”, ông nội Trương Viêm là Trương Nhu 張濡 bị bắt và bị giết. Cha là Trương Xu 張樞 không rõ số phận thế nào. Toàn bộ gia sản và thê thiếp đều bị tịch biên. Lúc đó Trương Viêm 27 tuổi, một mình đào thoát. Có lẽ chính thê của trương Viêm cũng thệ thế trong biến cố này.  

7- Đốn : Bỗng chốc, chợt, liền, tức khắc. Đốn biệt 頓別: bất chợt khác biệt. Đốn ngộ 頓悟: chợt ngộ ra.

8- Lộ phấn phong hương 露粉風香: phấn rơi ngoài đường, hương bay theo gió, chỉ cảnh cây cỏ hoang dã.

9- Tiêu hiết 消歇 = tiêu thất 消失: biến mất, tiêu tan.

10- Thê yết 凄咽: buồn thảm.

11- Phân mệ 分袂: chia tay, ly biệt.

12- Uyên = uyên ương 鴛鴦: đôi nam nữ tương ái. Đái uyên 带鴛: dây thắt lưng của đôi uyên ương. Đồng bả đái uyên thân kết 同把带鴛親结: đôi uyên ương cùng đem dây lưng nối lại với nhau, tỏ ý vĩnh bất phân ly. (Tác giả ám chỉ người vợ đã quá cố).

13- Tuế vãn 歲晚: năm hết, cuối năm.

14- Vong liễu 忘瞭: đã quên mất, hiển nhiên quên mất.

15- Tây phong 西風: gió thu, tác giả ám chỉ Nguyên Triều.

16- Tí : che chở. Bất tí 不庇: không che chở.

17- Hàn thiền 寒蟬: giống ve sầu sinh vào mùa thu, tác giả ám chỉ chính gia đình mình.

18- Nhất lâm tàn diệp 一林殘葉: một rừng lá rụng, tác giả ám chỉ toàn gia của chính mình.

19- Thời tiết 時節: ám chỉ lúc xuân đến.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Cảm tưởng khi thăm chốn ở cũ (ở Hàng Châu, lúc đó đã thuộc về Nguyên Triều).

 

Nhìn khóm hoa ngoài kia nơi cây cầu nhỏ có dòng nước chẩy,

Cửa ngõ (nơi ở xưa) yên tĩnh tịch mịch.

Tiếng tiêu (xưa thường nghe nay) mất hẳn.

Chim hạc đã bay đi mất, lâu đài trống không,

Mỹ nhân nay đã về đâu dưới đêm trăng sáng?

Chuyện mười năm trước,

Buồn tan nát, (Làm) tâm tình tôi hoàn toàn biến đổi.

(Vườn xưa) hoang vu phấn rụng hương bay, không ai làm chủ,

Đều đã tiêu tan.

 

Thê thảm.

Nơi chia tay lúc gió sớm,

Đã cùng đem dây lưng đôi lứa nối kết với nhau.

(Nay) lúc năm hết nơi dòng sông khoảng khoát (không thấy ai), 

Hẳn đã quên mất, lời xưa từng nói trong tiệc rượu (tiễn hành).

Hận gió thu không che chở đám ve sầu,

Bèn quét sạch, một rừng lá rụng.

Cảm ơn khóm dương liễu đa tình,

Còn có bóng mát lúc xuân về.

 

Phỏng Dịch

 

1 Trường Đình Oán - Thăm Chốn Xưa

 

Ngắm hoa khóm, dưới cầu lưu thủy.

Đường ngõ âm u,

Tiếng tiêu im tuyệt.

Hạc vắng đài không,

Mỹ nhân đâu chốn đón minh nguyệt?

Chuyện mười năm trước,

Sầu tan nát, tâm tình khác biệt.

Phấn gió hương bay,

Không người chủ, đều thành hoang triệt.

 

Thê thiết,

Biệt ly nơi gió sớm,

Cùng nối chặt dây thân kết.

Trời sông tết đến, 

Đã quên mất, Lời xưa từng quyết.

Hận tây phong, chẳng cứu ve sầu,

Quét sạch lá, một rừng không tiếc.

Cảm dương liễu đa tình,

Còn có bóng xanh xuân tiết.

 

2 Thăm Chốn Xưa

 

Nhìn khóm hoa bên cầu nước chẩy,

Cửa ngõ kia một dẫy không mầu,

Ngọc tiêu im tiếng từ lâu,

Đài không bóng hạc dãi dầu ngày qua.

 

Dưới trăng tà bội hoàn vắng vẻ,

Chuyện mười năm sầu bẻ ngàn lần.

Tâm tình cảm khái muôn phần,

Vườn xưa không chủ xa gần hoang vu.

 

Tận thê lương buổi từ biệt ấy,

Gió ban mai chốn đấy chia tay.

Uyên ương kết nối lòng này,

Hẹn rằng năm hết về đây trùng phùng.

 

Hẳn đã quên, khúc sông quạnh vắng, 

Lời nói xưa rượu đắng trên môi,

Hận gió thu chẳng che đời,

Hàn thiền, quét sạch một trời rừng cây.

 

Chỉ còn đây tươi mầu dương liễu,

Cảm tạ ngươi một nỗi đa tình.

Xuân về rủ bóng xanh xanh,

Đón người cố cựu đứng hình cảm thương.

 

HHD 11-2024