Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Sunday, March 23, 2025

Bạc Hãnh - Lữ Vị Lão

Lữ Vị Lão 呂渭老, còn gọi là Lữ Tân Lão 呂濱老, tên chữ là Thánh Cầu 聖求, người thị trấn Gia Hưng 嘉興, tỉnh Chiết Giang 浙江, TH. Ông tuy có tài làm thơ nhưng chỉ làm chức quan nhỏ trong triều dưới thời vua Tống Huy Tông 宋徽宗 cho đến biến cố Tĩnh Khang 靖康 (quân Kim 金 chiếm kinh đô nhà Tống ). Không ai rõ tình trang của ông ra sao dưới thời Nam Tống 南宋. Ông còn để lại 1 quyển Thánh Cầu Từ 聖求詞.  

 

薄倖 - 呂渭老  Bạc Hãnh - Lữ Vị Lão

 

青樓春                 Thanh lâu xuân vãn.

晝寂寂、梳勻Trú tịch tịch, sơ quân hựu lãn.

乍聽得、鴉啼鶯哢,Sạ thính đắc, nha đề oanh lộng,

惹起新愁無         Nhạ khởi tân sầu vô hạn.

記年時、偷擲春心,Ký niên thời, thâu trịch xuân tâm,

花間隔霧遙相     Hoa gian cách vụ dao tương kiến.

便角枕題詩,             Tiện giác chẩm đề thi,

寶釵貰酒,                 Bảo thoa thế tửu,

共醉青苔深         Cộng túy thanh đài thâm viện.

 

怎忘得、迴廊下,     Chẩm vong đắc, hồi lang hạ,

攜手處、花明月滿Huề thủ xứ, hoa minh nguyệt mãn.

如今但暮雨,             Như kim đản mộ vũ,

蜂愁蝶恨                 Phong sầu điệp hận,

小窗閒對芭蕉     Tiểu song nhàn đối ba tiêu triển.

卻誰拘                 Khước thùy câu quản.

盡無言、閒品秦箏,Tận vô ngôn, nhàn phẩm tần tranh,

淚滿參差             Lệ mãn sâm si nhạn.

腰支漸小,                 Yêu chi tiệm tiểu,

心與楊花         Tâm dữ dương hoa cộng viễn.

 

Chú Thích

1- Bạc hãnh 薄倖: tên từ bài, gồm 108 chữ, trắc vận. Cách luật:

 

T B B T vận

T X T, B B T T vận

T X T, B B B T cú

X T X B X T vận

T X B, B T B B cú

B B T T B B T vận

T T T B B cú

X B X T cú

X T B B X T vận

 

X X T, B B T cú

X T T, X B T T vận

X B X X T cú

B B X T cú

X B X T B B T vận

T B B T vận

T B B, B T B B cú

X T B B T vận

B B T T cú

X T B B T T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Thanh lâu 青樓: phiếm chỉ nhà lầu của phụ nữ quý tộc, khuê các. Xuất xứ từ bài thơ “Mỹ nữ thiên 美女篇” của Tào Thực 曹植 đời Tam Quốc:

 

借問女何居,Tá vấn nữ hà cư, Hãy hỏi cô ở đâu,

乃在城南端,Nãi tại thành nam đoan, Thì ở tại cửa chính thành phía nam.

青樓臨大路,Thanh lâu lâm đại lộ, Nhà sơn mầu xanh hướng về đại lộ,

高門結重關.   Cao môn kết trùng quan. Cửa cao có cài 2 lần then cửa.

 

3- Xuân vãn 春晚= vãn xuân 晚春: cuối mùa xuân. Trong cổ điển văn chương, cảnh “Vãn xuân” thường xuất hiện trăm hoa tàn rụng linh lạc tạo nên chữ “Sầu”, và nuối tiếc mùa xuân.

4- Tịch tịch 寂寂 = tịch mịch 寂寞: cô đơn buồn tẻ.

5- Sơ quân 梳勻 = sơ đầu quân diện 梳頭勻面 chải đầu và thoa phấn son, trang điểm.

6- Sạ : chợt, đột nhiên.突然。

7- Lộng : tiếng chim kêu.

8- Nhạ : khiến cho.

9- Niên thời 年時: năm đó.

10- Thâu trịch xuân tâm 偷擲春心: âm thầm luyến ái một người, tự đem lòng hứa hẹn với người.

11- Hoa gian 花間: giữa khóm hoa, giàn hoa, vườn hoa.

12- Giác chẩm 角枕: dùng vật trang sức làm bằng sừng gắn trên gối.

13- Thế Tửu 貰酒: đổi vật gì lấy rượu. Bảo thoa thế tửu 寶釵貰酒: đem thoa quý đổi lấy rượu.

14- Hồi lang 迴廊: hành lang khúc chiết.

15- Phong sầu điệp hận 蜂愁蝶恨:  ong buồn bướn hận, buồn hận vì tình.

16- Thùy : ai, cái gì. Khước thùy câu quản 卻誰拘管: lại không có cái gì quản thúc (tình tứ).

17- Nhàn : nhàn hạ. không có gì làm. Phẩm : diễn tấu.

18- Tần tranh 秦箏: tức là đàn cổ tranh 古箏 do một người nước Tần cải biến nên gọi là Tần tranh.

19- Sâm si nhạn 差雁: chỉ những trụ nâng dây đàn tranh như những con nhạn cài so le với nhau. Sâm si 參差 = so le.

20- Yêu chi 腰支: đoạn thân mình ở dưới ngực, ngang thắt lưng.

21- Dương hoa 楊花: hoa dương liễu.

 

Dịch Nghĩa

Nhà khuê các lúc cuối xuân.

Ngày cô đơn buồn tẻ lại lười trang điểm.

Chợt nghe thấy tiếng quạ kêu, chim oanh hót,

Khiến dâng lên mối sầu mới vô hạn.

Nhớ năm xưa, âm thầm luyến ái người,

Giữa đám hoa và cách làn sương ở xa trông thấy nhau.

Thế rồi (yêu nhau thắm thiết) viết thơ lên gối (cái gối đầu),

Tôi lấy cái thoa quý cầm thế đổi lấy rượu,

Cùng say sưa trong nhà viện sâu kín phủ rêu xanh.

 

Làm sao quên được, trong hành lang khúc chiết,

Nơi dắt tay nhau, hoa đẹp trăng đầy.

Như ngày nay chỉ có mưa chiều (liên miên),

Ong buồn bướm hận (buồn hận vì tình),

Cây chuối lá xòe ra ngay trước cửa sổ nhỏ.

(Lòng bực bội đang phát tiết)

Lại còn có ai đến lo toan việc này.

Không còn lời nào để nói, nản lòng gẩy khúc đàn tranh,

Nước mắt rơi đầy trên phím đàn.

(nước mắt rơi đầy trên những miếng gỗ căng dây đàn hình chim nhạn, xếp thành hàng so le nhau).

Lưng eo (của mình) dần nhỏ lại (thân hình dần gầy đi),

Tâm tình cùng bay xa theo với hoa dương liễu.

 

Phỏng Dịch

 

1 Bạc Hãnh – Khuê Oán

 

Lầu xanh xuân muộn.

Ngày tịch mịch, phấn son ươn lãn.

Chợt nghe thấy, kêu gào oanh quạ,

Gợi mối sầu thương vô hạn.

Nhớ năm xưa, mê luyến âm thầm,

Giàn hoa khói phủ trông xa bạn.

Quấn quít mối tình thơ,

Thoa vàng đổi rượu,

Cộng túy rêu phong nhà vắng.

 

Sao quên được, hành lang ấy,

Tay nắm dắt, hoa tươi nguyệt mãn.

Đến nay chiều mưa gió,

Tình sầu ái hận,

Ba tiêu bực tức bên song oán.

Có người nào quản.

Nói gì đây, buồn gẩy đàn tranh,

Lệ ướt tràn phím nhạn.

Thân gầy vóc hạc,

Lòng với hoa dương gió thoảng.

 

2 Khuê Oán

 

Khuê phòng xuân sắp tàn,

Tịch mịch đang tràn lan.

Chán nản và lười biếng,

Không son phấn điểm trang.

 

Chợt nghe oanh hót vang,

Gợi mối sầu miên man.

Nhớ năm xưa luyến ái,

Đến với người tình lang.

 

Cách sương hoa thấy bạn,

Thố lộ hết tâm can.

Cùng viết thơ trên gối,

Đẹp duyên thắm vẹn toàn.

 

Đem cầm thế bảo thoa,

Đổi mỹ tửu chan hòa.

Túy lúy trong thâm viện,

Rêu xanh phủ lầu hoa.

 

Làm thế nào quên được,

Hành lang khuất dắt tay.

Hoa đẹp trăng viên mãn,

Bên nhau mình đắm say.

 

Bây giờ chiều đổ mưa,

Buồn hận mấy cho vừa.

Ba tiêu buông cửa nhỏ,

Ai quản tình bơ vơ.

 

Lặng lẽ trong phòng loan,

Bâng khuâng dạo khúc đàn.

Tần tranh tấu mộ khúc,

Phím nhạn lệ dâng tràn.

 

Tấm thân gầy ái ngại,

Ngày tháng đang dần phai.

Tình ý xưa suy bại,

Theo dương hoa cuối trời.

 

HHD 01-2023

 

  

Bốc Toán Tử - Trương Nguyên Cán

Trương Nguyên Cán 張元幹, tên chữ là Trọng Tông 仲宗, hiệu là Chân Ẩn Sơn Nhân 真隱山人 và Lô Xuyên Cư Sĩ 蘆川居士, sinh trưởng ở tỉnh Phúc Kiến 福建, TH. Ông đã từng hợp với tùy tùng của Lý Cương 李綱 tham gia kháng Kim. Vì ông làm bài từ hạ tân lang tặng cho Hồ Thuyên  胡銓 là phe chủ chiến mà ông bị Tần Cối 秦檜 cách chức.

Từ của ông chuyển từ uyển lệ thời Bắc tống sang khảng khái kích động thời Nam Tống. Ông còn để lại tập “Lô Xuyên Quy Lai 蘆川歸來” và “Lô Xuyên Từ 蘆川詞”.   

 卜算子 - 張元幹  Bốc Toán Tử - Trương Nguyên Cán

 

風露溼行雲,             Phong lộ thấp hành vân,

沙水迷歸             Sa thủy mê quy đĩnh.

臥看明河月滿空,     Ngọa khán minh hà nguyệt mãn không,

鬥掛蒼山             Đấu quải thương sơn đỉnh.

 

萬古只青天,             Vạn cổ chỉ thanh thiên,

多事悲人             Đa sự bi nhân cảnh.

起舞聞雞酒未醒,     Khởi vũ văn kê tửu vị tỉnh,

潮落秋江             Triều lạc thu giang lãnh.

 

Chú Thích

1- Bốc toán tử 卜算子: tên từ điệu, còn được gọi là Bách xích lâu 百尺樓, Mi phong bích 眉峰碧, Sở thiên dao 楚天遥v.v. Bài từ này có 44 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 2 trắc vận. Cách luật:

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Thấp : thấm ướt y phục.

3- Hành vân 行雲: mây bay.

4- Sa thủy 沙水: tức là dòng suối Sa khê 沙溪 chẩy vào sông Mân giang 閩江, tỉnh Phúc Kiến, TH.

5- Quy đĩnh 歸艇: thuyền về nhà sau thời gian đi xa.

6- Minh hà 明河 = ngân hà.

7- Đấu  = đẩu : sao Bắc Đẩu.

8- Vạn cổ 萬古: Từ muôn đời xưa.

9- Đa sự 多事 = quốc gia đa sự.

10- Nhân cảnh 人境: nhân sinh cảnh huống, cảnh huống của đời người.

11- Khởi vũ văn kê 起舞聞雞: chuyện kể đời Đông tấn東晉có 2 người bạn là Tổ Địch祖狄 và Lưu Côn 劉琨, cứ mỗi sáng nghe gà gáy thì thức dậy tập múa kiếm, mưu việc bắc phạt.

12- Triều lạc 潮落: nước thủy triều rút xuống.

 

Dịch Nghĩa

Gió thổi và sương đêm làm ướt cảnh vật, trên trời mây bay,

Thuyền đi trên dòng sông Sa Thủy mê lạc lối về.

Nằm (trên thuyền) nhìn trăng và dải ngân hà, sao đầy trời,

Sao Bắc Đẩu như treo trên đỉnh núi xanh.

 

Chỉ vòm trời xanh còn mãi mãi từ vạn cổ,

Bao nhiêu chuyện xẩy ra làm cảnh huống con người buồn thảm.

Đã nghe tiếng gà gáy, dù rượu chưa tỉnh, đứng lên múa (kiếm),

Nước thủy triều rút xuống, dòng sông trong mùa thu lạnh lẽo.

 

Phỏng Dịch

 

Bốc Toán Tử - Cảm Khái

 

Sương gió ướt mây bay,

Lạc lối thuyền trên suối.

Nằm ngắm ngân hà nguyệt sáng soi.

Bắc đẩu treo đầu núi.

 

Muôn thuở vẫn trời xanh,

Nhân cảnh buồn trăm mối.

Chưa tỉnh nghe gà đứng múa may,

Thu lạnh sông triều vợi.

 

2 Cảm Khái

 

Mây bay ướt áo gió sương,

Lênh đênh Sa thủy lạc đường lối xưa.

Nằm xem sao sáng trăng mơ,

Ngôi sao Bắc Đẩu lững lờ núi xanh.

 

Cổ kim còn mãi thiên thanh,

Cảnh người buồn thảm xoay quanh chuyện đời.

Vẳng nghe gà gáy đầy vơi,

Đứng lên múa kiếm cơn say chưa tàn.

 

Thủy triều cạn, lạnh thu giang.

 

HHD 12-2021

 

 

Lâm Giang Tiên - Trần Dữ Nghĩa

Trần Dữ Nghĩa 陳與義, tự là Khứ Phi 去非,hiệu là Giản Trai 簡齋, sinh trưởng ở Lạc Dương 洛陽 thuộc tỉnh Hà Nam 河南, TH. Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Nam Tống 南宋. Từ của ông có nét hào phóng như Tô Thức 蘇軾, ngữ ý minh lãng siêu tuyệt. Ông còn để lại tập “Giản Trai Tập 簡齋集” gồm khoảng hơn 10 bài.

臨江仙 - 陳與義  Lâm Giang Tiên - Trần Dữ Nghĩa

夜登小閣憶洛中舊遊 Dạ đăng tiểu các ức cựu du

 

憶昔午橋橋上飲,     Ức tích Ngọ Kiều kiều thượng ẩm,

坐中多是豪         Tọa trung đa thị hào anh.

長溝流月去無     Trường câu lưu nguyệt khứ vô thanh.

杏花疏影里             Hạnh hoa sơ ảnh lý,

吹笛到天             Xuy địch đáo thiên minh.

 

二十餘年如一夢,     Nhị thập dư niên như nhất mộng,

此身雖在堪         Thử thân tuy tại kham kinh.

閒登小閣看新     Nhàn đăng tiểu các khán tân tình.

古今多少事,             Cổ kim đa thiểu sự,

漁唱起三             Ngư xướng khởi tam canh.

 

Chú Thích

1 Lâm giang tiên 臨江仙: tên từ bài, nguyên là 1 bài hát của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Bài này có 60 chữ, đoạn trên và đoạn dưới đều có 3 bình vận. Cách luật:

 

X T X B B T T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X B B T T cú

X T T B B vận

  

X T X B B T T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X B B T T cú

X T T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Ức tích 憶昔: nhớ chuyện xưa.

3- Ngọ kiều 午橋: tên một cây cầu ở phía nam thành Lạc Dương 洛陽.

4- Tọa trung 坐中: những người ngồi trong bàn tiệc rượu.

5- Hào anh 豪英: anh hùng hào kiệt.

6- Trường câu lưu nguyệt 長溝流月: ánh trăng chiếu trên sông dài, soi theo dòng nước đang chẩy. Tác giả lấy ý từ câu thơ trong bài “Lữ dạ thư hoài 旅夜書懷” của Đỗ Phủ 杜甫:

 

星垂平野闊,Tinh thùy bình dã khoát,

月涌大江流。Nguyệt dũng đại giang lưu.

Sao đêm (như) thòng xuống nơi bình sa khoáng dã,

Ánh trăng dũng động theo sóng nước đại giang đang chẩy.

 

7- Khứ vô thanh 去無聲: nước chẩy êm thắm không âm thanh, ý nói đêm đã khuya, trăng âm thầm lặn về tây.

8- Sơ ảnh 疏影: hình ảnh lưa thưa. Lý  = lý: ở trong, hạnh hoa sơ ảnh lý 杏花疏影里: dưới bóng hoa lưa thưa của cây hạnh.

9- Xuy địch 吹笛: thổi sáo.

10- Thiên minh 天明: trời sáng.

11- Nhị thập dư niên  二十餘年: hơn 20 năm trở lại đây.

12- Kham kinh 堪驚: chịu đựng nỗi kinh hoàng trong lúc nước mất nhà tan. Thử thân tuy tại kham kinh此身雖在堪驚: Thân mình tuy sống sót qua cơn biến loạn nhưng nghĩ lại không khỏi kinh hoàng cảm khái.  

13- Nhàn đăng 閒登: nhàn nhã bước lên.

14- Tân tình 新晴: trời mới tạnh sau cơn mưa.

15- Cổ kim 古今: cổ vãng kim lai 古往今來: từ xưa đến nay.

16- Ngư xướng 漁唱: tiếng hát của dân chài.

17- Tam canh 三更: canh 3. Ngày xưa một đêm chia làm 5 canh, lúc nửa đêm là canh 3.

 

Dịch Nghĩa

Đêm lên gác nhỏ nhớ cựu du

 

Nhớ lại năm trước uống rượu trên cầu Ngọ Kiều,

Ngồi chung đa số là anh hùng hào kiệt.

Ánh trăng chiếu trên dòng nuớc chẩy êm đêm lặng lẽ.

Dưới bóng hoa lưa thưa của cây hạnh,

Thổi sáo cho đến lúc trời sáng.

 

Hơn 20 năm như một giấc mộng,

Thân này tuy từng trải qua biến loạn kinh hoàng.

(Nay) nhàn nhã bước lên lầu xem cảnh trời mới tạnh mưa.

Từ xưa đến nay đã bao nhiêu việc xẩy ra,

Tất cả đều nhường cho ngư phủ đem làm câu ca lúc tam canh.

 

Phỏng Dịch

 

1 Lâm Giang Tiên - Quá Khứ Như Mộng

 

Nhớ lúc Ngọ Cầu mình uống rượu,

Ngồi chung cùng bọn hào anh.

Sông dài bóng nguyệt chẩy vô thanh.

Lưa thưa hoa hạnh ảnh,

Thổi sáo đến bình minh.

 

Hai chục năm hơn như giấc mộng,

Thân này tuy trải hoảng kinh.

An nhàn mưa tạnh chốn lầu xinh.

Xưa nay toàn thế sự,

Chài hát lúc ba canh.

 

2- Quá Khứ Như Mộng

 

Nhớ xưa uống rượu trên cầu,

Ngồi chung đều bọn anh hào với nhau.

Sông dài bóng nguyệt trôi mau,

Lưa thưa hoa ảnh soi mầu đẹp xinh.

 

Sáo vui thổi đến bình minh.

Hai mươi năm cũ cũng thành giấc mơ.

Hoảng kinh chiến trận thẫn thờ,

Thân này từng trải những giờ ly tan.

 

Tạnh mưa gác nhỏ an nhàn,

Xưa nay thế sự đêm tàn chài ca.

 

HHD 12-2022

 

Monday, March 10, 2025

Khúc Du Xuân - Chu Mật

曲游春-周密  Khúc Du Xuân – Chu Mật

禁煙湖上薄遊,施中山賦詞甚佳,余因次其韻。蓋平時遊舫,至午後則盡入裏湖,抵暮始出斷橋,小駐而歸,非習於遊者不知也。故中山亟擊節余「閒卻半湖春色」之句,謂能道人之所未云。

Cấm yên hồ thượng bạc du, Thi Trung Sơn phú từ thậm giai, dư nhân thứ kỳ vận. Cái bình thời du phảng, chí ngọ hậu tắc tận nhập Lý hồ, để mộ thủy xuất Đoạn kiều, tiểu trú nhi quy, phi tập ư du giả bất tri dã. Cố Trung Sơn cức kích tiết dư “nhàn khước bán hồ xuân sắc” chi cú, vị năng đạo nhân chi sở vị vân.

  

禁苑東風外,      Cấm uyển đông phong ngoại,

颺暖絲晴絮,      Dương noãn ty tình nhứ,

春思如        Xuân tứ như chức.

燕約鶯期,        Yến ước oanh kỳ,

惱芳情偏在,      Não phương tình thiên tại,

翠深紅        Thúy thâm hồng khích.

漠漠香塵      Mạc mạc hương trần cách,

沸十里、亂絲叢Phí thập lý, loạn ty tùng địch.

看畫船盡入西泠,Khán họa thuyền, tận nhập Tây Linh,

閒卻半湖春    Nhàn khước bán hồ xuân sắc.

 

                          Liễu mạch,

新煙凝                 Tân yên ngưng bích.

映簾底宮眉,             Ánh liêm để cung mi,

隄上游                 Đê thượng du lặc.

輕暝籠寒,                 Khinh mính lung hàn,

怕梨雲夢冷,             Phạ lê vân mộng lãnh,

杏香愁                 Hạnh hương sầu mịch.

歌管酬寒             Ca quản thù hàn thực.

奈蝶怨、良宵岑Nại điệp oán, lương tiêu sầm tịch.

正滿湖、碎月搖花,Chính mãn hồ, toái nguyệt dao hoa,

怎生去                 Chẩm sinh khứ đắc?

 

Chú Thích

1- Khúc du xuân 曲遊春: tên từ bài, sáng tác từ đời Tống, có 102 chữ, trắc vận. Cách luật:

 

X T B B T cú

T X B B T cú

B T B T vận

T T B B cú

T X B X T cú

X B B T vận

T T B B T vận

X T T, T B B T vận

T T B, T T B B cú

B X T X B T vận

 

T T vận

B B X T vận

T X T B B cú

B T B T vận

X T B B cú

X B B T T cú

X B B T vận

X T B B T vận

T T T, X B X T vận

T T B, T T B B cú

[[X T X T B B cú]]

X B T T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Cấm yên 禁煙 = cấm yên hỏa 禁煙火: không nấu nướng. Vào tiết hàn thưc 寒食 (ăn lạnh) thì mọi người ăn thức ăn nguội đã nấu sẵn từ trước, vì vậy nói cấm đun nấu.

3- Bạc du 薄遊 = du: du ngoạn, chữ bạc  dùng làm chuyển ngữ, vô ý nghĩa.

4- Thi Trung Sơn 中山: Thi Nhạc 施嶽tự là Trung Sơn中山, giỏi âm luật, bạn của tác giả. 

5- Phú từ 賦詞: làm bài từ.

6- Thứ vận 次韻: họa vận

7- Cái : Siêu việt, trội hơn, át hẳn.

8- Du phảng 遊舫 = du thuyền 遊船。

9- Lý Hồ : xung quanh Tây Hồ ở Hàng Châu 杭州 có 5 bộ phận nhỏ là Lý Tây hồ 裏西湖, Tây Lý hồ 西裏湖, Tiểu Nam hồ 小南湖, Nhạc hồ 岳湖 và Bắc Lý hồ 北裏湖. Chữ Lý hồ ám chỉ “Lý Tây hồ” hoặc là “Tây Lý hồ”.

10 - Để mộ 抵暮: đến chiều.  

11- Đoạn kiều 斷橋: tên cây cầu ở Hàng Châu.

12- Kích tiết 擊節: tán thưởng.

13- Cấm uyển 禁苑: vườn thượng uyển, ám chỉ cung đình.

14- Dương : gió thổi bay cao.  

15- Noãn ty tình nhứ 暖絲晴絮 = ôn noãn hựu tình lãng đích ty nhứ 温暖又晴朗的絲絮: nhánh liễu ấm áp và khô ráo, hoặc là cành tơ liễu trong ngày ấm áp và tạnh ráo.

16- Xuân tứ 春思: tình cảm đối với ngày xuân.

17- Yến ước oanh kỳ 燕約鶯期: nam nữ yêu đương hẹn hò với nhau.

18- Phương tình 芳情: có thể hiểu là “Mỹ hảo đích tình hoài 美好的情懷: tình cảm mỹ hảo”, hoặc là “Nùng tình mật ý 濃情蜜意: tình ý nồng thắm”.

19- Thiên  = đặc biệt 特别, rất.

20- Thúy thâm hồng khích翠深紅隙: sâu trong cành lá và qua khe hở những bông hoa, chỉ nơi hẹn hò của các tình nhân.

 

21- Não phương tình thiên tại, thúy thâm hồng khích 惱芳情偏在,翠深紅隙 = não phương tình, thiên tại thúy thâm hồng kích 惱芳情, 偏在翠深紅隙: nồng tình mật ý đều tại sâu trong bụi cây hoa lá.

22- Mạc mạc 漠漠: phân bố dầy đặc. Cách : che lấp.

23- Phí : sôi sục. Ý nói tiếng người huyên náo sôi sục.

24- Loạn ty tùng địch 亂絲叢笛: loạn dây đàn và rừng sáo, tiêu. Đàn sáo vang lừng.

25- Họa thuyền 畫船: thuyền sang trọng.

26- Tây Linh 西泠 = Tây Linh kiều 西泠橋: tên một cây cầu ở Tây Hồ 西湖, Hàng Châu, TH.

27- Nhàn khước 閒卻 = không nhàn 空閒, nhàn hạ 閒暇, nhàn. Nhàn khước bán hồ xuân sắc 閒卻半湖春色 = bán hồ xuân sắc chi nhàn khước 半湖春色之閒卻: cái nhàn hạ của nửa hồ xuân sắc.

28- Liễu mạch 柳陌: con đường trồng cây liễu.  

29- Liêm để cung mi 簾底宮眉: người cung nữ trong rèm. Tác giả chỉ những người đẹp ở trong lầu khi ấy.

30- Du lặc 遊勒: người cưỡi ngựa đi du ngoạn.

31- Khinh mính 輕暝: hơi tối, chạng vạng.

32- Lê vân mộng 梨雲夢: trong mộng thấy hoa lê nhiều như mây. Người Trương Bang Cơ 張邦基 tự là Tử Hiền子賢, đời Tống , soạn ra bộ sách “Hắc Trang Mạn Lục 墨莊漫錄” gồm 10 quyển, quyển thứ sáu chép bài ca “Mộng Khán Lê Hoa Vân Ca 夢看梨花雲歌” của Vương Kiến 王建 đời Đường , trong đó có câu:

 

薄薄落落霧不分bạc bạc lạc lạc vụ bất phân,

夢中喚作梨花雲mộng trung hoán tác lê hoa vân.

Mỏng mỏng tích lũy như sương trông không rõ,

Trong mộng gọi là đám mây hoa lê.

 

33- Mịch : che trùm, bao trùm, che đậy.

34- Ca quản 歌管: ca hát và hòa nhạc.

35- Thù : báo đáp, thực hiện ý nguyện.

36- Hàn thực 寒食: tiết ăn cơm nguội, không nấu nướng.

37- Nại  = vô nại 無奈: không cách nào.

38- Sầm tịch 岑寂: cô đơn tịch mịch.

39- Chính : chính lúc này.

40- Toái nguyệt 碎月: ảnh của mặt trăng như tan vỡ trên sóng nước.

41- Chính mãn hồ, toái nguyệt dao hoa: chính lúc này toàn hồ, (sóng làm cho) bóng trăng tan vỡ và bóng hoa lay động. Bản khác chép “Chính nhiệm toái nguyệt dao hoa 正恁醉月搖花: chính lúc mặc cho trăng vỡ hoa lay”.

42- Chẩm sinh 怎生 = chẩm dạng 怎樣: sao? thế nào?

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Đi du ngoạn trên hồ trong tiết hàn thực. Thi Trung Sơn làm một bài từ thật hay. Vậy tôi họa một bài. Du thuyền lúc bình thời, đến xế trưa thì tiến vào Lý Hồ. Lúc hoàng hôn mới thong thả đi ra Đoạn Kiều, dừng lại một tí rồi mọi người tự đi về. Những người không quen đi chơi hồ thì không hiểu tình hình này. Vì vậy Thi Trung Sơn nhiều lần nhiệt liệt tán thưởng câu từ của tôi “Nhàn khước bán hồ xuân sắc”, rằng câu này có thể nói lên được những cảnh sắc mà ông ta chưa nói đến.

 

Gió xuân ngoài cung đình,

Gió thổi nhánh tơ liễu trong ngày ấm tạnh,

Ý xuân như dệt.

Thời kỳ hẹn ước (của tình nhân),

Ý thắm tình nồng,

Đều tại nơi khóm cây hoa lá.

Dầy đặc bụi thơm che bầu trời,

Mười dặm sôi sục, tiếng đàn sáo loạn xạ.

Nhìn đám thuyền hoa đều vào hết vùng Tây Lãnh kiều,

Nửa hồ xuân sắc nhàn hạ.

 

Con đường trồng liễu.

Khói mới bay lên ngưng đọng thành mầu xanh biếc.

Ánh chiếu những người đẹp ở trong rèm,

Và những người khách cưỡi ngựa ở trên đê.

Ánh sáng mờ nhạt (như) bao trùm vẻ lạnh,

Chỉ sợ như mộng cảnh hoa lê dầy đặc như mây lạnh lẽo,

Mùi hoa hạnh (thoảng qua tăng thêm) vẻ buồn tịch mịch.

Tiếng đàn hát trong ngày lễ hàn thực.

Cánh bướm cũng phải mai oán đêm lành tịch mịch (ngày lễ đã hết).

Toàn khu hồ chính lúc này, sóng lăn tăn làm ánh trăng tan vỡ và bóng hoa lay động.

(Cảnh đẹp như thế này) làm sao tôi bỏ đi được?

 

Phỏng Dịch

 

1 Khúc Du Xuân - Cảnh Hồ Tây

 

Thượng uyển xuân đưa gió,

Ấm tạnh cành tơ liễu,

Xuân tứ như dệt.

Ước hẹn thời kỳ,

Thắm nồng bao tình ý,

Khóm cây hoa vết.

Ngột ngạt hương thơm cách.

Mười dặm sủi, sáo hò đàn hét.

Thấy họa thuyền, tiến đến Tây Linh,

Nhàn hạ nửa hồ xuân sắc.

 

Liễu mạch.

Khói lên mầu bích

Ánh cung nữ sau rèm,

Trên đê ngựa bạch.

Mờ tối hàn vây,

Sợ hoa lê lạnh lẽo,

Hạnh hương sầu kết.

Ca hát tiết hàn thực.

Ngại bướm oán, đêm thanh cô tịch.

Chính khắp hồ, nguyệt vỡ hoa lay,

Làm sao bỏ được?

 

2 Cảnh Hồ Tây

 

Gió xuân vi vút ngoài cung,

Nhánh khô cành ấm sánh cùng bay cao.

Ý xuân như dệt thanh tao,

Yến oanh hẹn ước xôn xao ý tình.

 

Cành hoa khóm lá đẹp xinh,

Bụi thơm bay khắp trời xanh mịt mù.

Sục sôi mười dặm lu bù,

Vang lừng ca hát, vi vu quản huyền.

 

Tây Linh vào hết họa thuyền

Nửa hồ xuân sắc triền miên thanh nhàn.

Hàng cây liễu rủ bên đàng,

Khói lên xanh biếc, ánh màn mỹ nhân.

 

Trên đê cưỡi ngựa du xuân,

Lạnh lùng chạng vạng xa gần bủa vây.

Sợ hoa lê nhiễm lạnh đầy,

Trong mơ lại tưởng như mây trắng ngần.

 

Hạnh hương sầu kết mấy phần,

Nhân mùa hàn thực gẩy đàn thổi tiêu.

Đêm về bướm oán cô liêu,   

Giữa hồ nguyệt vỡ sóng đều hoa lay.     

 

Đi không đành, cảnh đẹp thay!

 

HHD 11- 2024