Monday, December 20, 2021

Vĩnh Ngộ Nhạc - Tân Khí Tật

永遇樂 - 辛棄疾  Vĩnh Ngộ Nhạc – Tân Khí Tật

京口北固亭懷古  Kinh khẩu bắc cố đình hoài cổ

 

千古江山,                 Thiên cổ giang sơn,

英雄無覓,                 Anh hùng vô mịch,

孫仲謀                 Tôn Trọng Mưu xứ

舞榭歌台,                 Vũ tạ ca đài,

風流總被,                 Phong lưu tổng bị,

雨打風吹             Vũ đả phong xuy khứ.

斜陽草樹,                 Tà dương thảo thụ,

尋常巷陌,                 Tầm thường hạng mạch,

人道寄奴曾         Nhân đạo Ký Nô tằng trú.

想當年、金戈鐵馬, Tưởng đương niên, kim qua thiết mã,

氣吞萬里如         Khí thôn vạn lý như hổ.

 

元嘉草草,                 Nguyên gia thảo thảo,

封狼居胥,                 Phong lang cư tư,

贏得倉惶北         Doanh đắc thương hoàng bắc cố.

四十三年,                 Tứ thập tam niên,

望中猶記,                 Vọng trung do ký,

烽火揚州             Phong hỏa Dương châu lộ.

可堪回首,                 Khả kham hồi thủ,

佛狸祠下,                 Phật ly từ hạ,

一片神鴉社         Nhất phiến thần nha xã cổ.

憑誰問、廉頗老矣,Bằng thùy vấn, liêm phả lão hỹ,

尚能飯                 Thượng năng phạn phủ?

 

Chú Thích

1- Vĩnh ngộ nhạc (lạc) 永遇樂: tên từ điệu. Nguyên từ này có cả bình vận và trắc vận. Từ thời Bắc Tống xuất hiện trắc vận. Đến thời Nam Tống thì lại có bình vận. Trong cuốn từ điển "Cổ đại Hán ngữ từ điển 古代汉语词典" phiên âm từ điệu" 永遇樂 " là "Vĩnh Ngộ Lạc". Nhưng trong cuốn sách "Từ Bài Thích lệ 词牌释例" thì khẳng định chữ " 永遇樂 " phải phiên âm là Vĩnh Ngộ Nhạc vì có liên quan đến nhạc khúc.

Bài này có 104 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 11 câu, 4 trắc vận. Cách luật:

 

X T B B cú

X B X T cú

X X B T vận

X T B B cú

X B X T cú

X T B B T vận

X B X T cú

X B X T cú

X T X B X T vận

X B X, B B X T cú

X X T X B T vận

 

X B X T cú

X X X T cú

X T X B B T vận

X T B B cú

X B X T cú

X T B B T vận

X B X T cú

X X X T cú

X T X B B T vận

X B X, X X X T cú

X B T T vận

 

B: bình thanh, T: trắc thanh, X: bất luận, cú: hết câu, vận: vần

 

2- Kinh khẩu 京口: tên một thành cổ, nay ở tỉnh Giang Tô 江蘇, TH.

3- Bắc cố đình 北固亭: Một vị quan đời Tấn  tên là Thái Mô 蔡謨 xây dựng một căn nhà lầu trên núi Bắc Cố sơn 北固山, đặt tên là Bắc Cố đình 北固亭 hay Bắc Cố đình 北顧亭.

4- Tôn Trọng Mưu 孫仲謀: Tôn Quyền 孫權, tên chữ là Trọng mưu 仲謀, vua nước Đông Ngô 東吳 thời Tam Quốc.

5- Vũ tạ ca đài 舞榭歌台: nơi biểu diễn ca vũ, ám chỉ cố cung của Tôn Quyền.

6- Tầm thường hạng mạch 尋常巷陌: đường phố chật hẹp bình thường.

7- Ký Nô 寄奴: tên của Tống Võ đế Lưu Dụ  宋武帝劉裕 vua đời Nam Triều.

8- Tưởng đương niên 想當年: nghĩ đến năm đó, ám chỉ thời gian Lưu Dụ hưng binh phạt bắc.

9- Kim qua 金戈: giáo mác làm bằng kim loại.

10-Thiết mã 鐵馬: ngựa ra trận có khoác giáp bảo vệ trên lưng.

11- Nguyên Gia 元嘉: niên hiệu của vua Tống Văn đế Lưu Nghĩa Long 宋文帝劉義隆.

12- Thảo Thảo 草草: không thận trọng, khinh suất.

13- Phong : tế trời. Tế trời gọi là “Phong ”, tế đất gọi là “Thiền ”.

14- Lang cư tư 狼居胥: tên núi Lang Cư Tư sơn tại Nội Mông. Phong Lang Cư tư 狼居胥: tế trời ở núi Lang Cư Tư. Tích vua Hán Võ Đế 漢武帝 sai tướng là Hoắc Khứ Bệnh 霍去病 đi chinh phạt Hung Nô 匈奴 được thắng lợi, bèn xây đàn tế trời trên núi Lang Cư Tư sơn, tế đất trên núi Cô Diễn sơn 姑衍山 (Phong Lang Cư Tư sơn, thiền ư Cô Diễn 狼居胥山,姑衍).

15- Doanh đắc 贏得: thắng được, lợi được.

16- Thương hoàng : bàng hoàng, hoang mang, mang loạn. Còn viết là: “Thương hoàng 倉遑”. “Thương hoàng 倉徨”, “Thương hoàng 倉黃”, hay “Thương hoàng 倉皇”. 

17- Bắc cố 北顧: nhìn về phương bắc. Quân Tống bắc phạt bị đại bại. Quân Bắc Ngụy 北魏 thừa cơ nam tiến, thẳng đến Dương Châu 揚州. Vua Tống Văn Đế  宋文帝 sợ quá phải thân lên núi Mạc Phủ sơn 幕府山, nhìn về phương bắc xem xét tình thế.

18- Tứ thập tam niên 四十三年: 43 năm là thời gian từ khi tác giả phò nhà Tống chống quân Kim cho đến lúc viết bài từ này.

19- Phong hỏa Dương châu lộ 烽火揚州路: khói lửa chiến tranh giữa quân Tống và quân Kim ở Dương Châu 揚州.

20- Lộ : khu vực hành chánh thời nhà Tống.  

21- Kham : chịu đựng. Khả kham : Khả dĩ nhẫn thọ, có thể chịu đựng được.   Trong bài này, chữ "Khả kham" hàm ý "Sao có thể chịu đựng được".

22- Phật Ly 佛狸:  vua Thái Võ đế 太武帝 nước Bắc Ngụy 北魏 tên là Thác Bạt Đảo 拓跋燾, tên tự là Phật Ly Phạt 佛狸伐 (theo ngôn ngữ Tiên Ty 鮮卑, một bộ tộc Mông Cổ). Phật Ly là quan hiệu.

23- Phật Ly từ 佛狸祠: khi Phât Ly đem quân nam chinh đến phía bắc sông Trường giang thì lập một “Hành cung 行宮” ở đây (cung điện lập ra khi đi xa). Sau này biến thành “Phật Ly Từ  佛狸祠: miếu Phật y”.  Những người đến đây cúng kiếng cầu phước cũng không biết rằng nơi đây nguyên là cung của vua Bắc Ngụy đến xâm lăng.            

24- Thần nha 神鴉: chỉ những con quạ sống quanh miếu, thường tranh cướp những thức ăn của bá tính đem đến cúng.

25- Xã cổ社鼓: tiếng trống khi tế lễ.

26- Liêm pha 廉頗: tên một danh tướng của nước Triệu 趙 trong thời chiến quốc 戰國時. Liêm Pha Lận Tương Như Liệt Truyện 廉頗藺相如列傳 chép rằng: sau khi Liêm Pha bị miễn chức thì ông chạy đến ở nước Ngụy . Vua Triệu muốn dùng lại Liêm Pha, bèn sai sứ đến thăm hỏi tình huống. Thực ra Liêm Pha vẫn còn khỏe mạnh, hàng ngày ăn khỏe, mặc giáp cưỡi ngựa, nhưng sứ già vì nhận hối lộ cùa kẻ thù Liêm Pha nên về tâu rằng: “Liêm Pha dù già nhưng còn ăn khoẻ, tuy nhiên lúc ngồi tiếp thần một lúc thì đi tiêu 3 lần”. Vua Triệu cho là Liêm Pha đã già yếu bèn không dùng nữa.    

 

Dịch Nghĩa

Nhớ chuyện xưa lúc ở đình Bắc Cố, thành Kinh Khẩu.

Giang sơn từ ngàn xưa,

(Ngày nay) anh hùng không tìm thấy đâu. 

Nơi Tôn Trọng Mưu ở.

Những đài tạ dùng để xem múa hát,  

(Cuộc sống) phong lưu đều bị,

Mưa giập gió thổi mất.

Ánh tà dương chiếu trên cây cỏ,

Những ngõ ngách tầm thường,

Người ta nói rằng ngày xưa vua Tống Lưu Dụ (Ký Nô) thường ở đó.

Nghĩ đến năm đó,

Giáo thép và ngựa mang giáp sắt,

Khí thế nuốt vạn dặm như cọp.

 

Vua Nguyên Gia khinh suất,

Tế trời ở núi Lang Cư Tư,

Chỉ được (thua trận) bàng hoàng và Trông phương bắc (xem tình thế).

Bốn mươi ba năm (trước),

Nhìn về Trung nguyên còn nhớ,

Khói lửa ở vùng Dương Châu.

Sao có thể chịu đựng khi quay đầu nhìn lại,

Dưới miếu Phật Ly,

Một đám quạ chờ tranh ăn đồ cúng.

Nhờ ai hỏi, Lão tương Liêm Phả,

Còn ăn cơm được không?

 

Phỏng Dịch


1 Vĩnh Ngộ Nhạc - Nhớ Chuyện Xưa

 

Muôn thuở giang sơn,

Anh hùng không thấy,

Nơi vua Ngô ở.

Cung múa đài ca,

Phong lưu đều bị,

Gió giập mưa vùi bỏ.

Tà dương cây cỏ,

Tầm thường ngách ngõ,

Nghe nói Ký Nô từng ngụ.

Tưởng năm xưa, gươm vàng ngựa sắt,

Nuốt trôi vạn dặm như hổ.

 

Nguyên Gia khinh suất,

Tế trời cao sơn,

Để phải bàng hoàng bắc ngó.

Trải bấy nhiêu năm,

Ngoảnh trông còn nhớ.

Khói lửa Dương Châu lộ.

Sao kham nhìn lại,

Dưới đền vua Ngụy,

Một đám quạ đen chờ cỗ.

Nhờ ai hỏi, lão tướng già khụ,

Còn ăn được chứ?

 

2 Nhớ Chuyện Xưa

 

Giang sơn muôn thuở vắng anh hùng,

Đài múa nhà ca Ngô chúa cung.

Hoang phế phong lưu mưa gió dập,

Tà dương cây cỏ chốn Giang Đông.

 

Tầm thường ngõ ngách đất kinh đô,

Từng ngụ năm xưa vua Ký Nô.

Ngựa sắt giáo vàng đường bắc phạt,

Hùm beo vạn dặm nuốt sông hồ.

 

Nguyên Gia khinh suất khởi đao binh,

Những tưởng khải hoàn sau chiến chinh.

Thua trận bàng hoàng trong lúc ấy,

Hoảng kinh bắc vọng xem tình hình.

 

Cuộc đời xuôi ngược bốn ba năm,

Xa vọng Trung Nguyên vẫn khắc tâm.

Khói lửa Dương Châu tàn phố xá,

Quay đầu nhìn lại lòng nào cam.

 

Tế lễ Phật Ly miếu có linh?

Quạ thần chờ cúng những vô tình.

Nhờ ai đến hỏi Liêm Pha cũ,

Cơm bữa có còn vẫn nuốt nhanh.


HHD 12-2021

 

 

 

0 comments:

Post a Comment